Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Phan Đăng Nhật cho rằng: Cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ là nhạc cụ, nó còn là một khí cụ linh thiêng, một ngôn ngữ kỳ diệu, là thông điệp giữa người và thần linh vì theo niềm tin của đồng bào thì bản thân nó là nơi cư ngụ của những vị thần. Thần chiêng có cuộc sống tình cảm, có khi vui buồn, giận hờn. Thần chiêng có gia đình: chiêng mẹ, chiêng bố, chiêng con. Thần chiêng có thể trợ giúp con người được giàu sang, hạnh phúc và khi bị xúc phạm có thể gây tai họa cho con người.
Xưa nay trong tâm thức của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên thì cồng chiêng không những là tài sản vật chất quý giá mà nó như vị “thần chiêng” đầy linh ứng, có thần lực chi phối đời sống cá nhân và cộng đồng. Con người là nhân tố kết nối giữa thần chiêng và cộng đồng nên khi sử dụng nhạc cụ này vào các mục đích khác nhau đều phải được phép của thần-một chủ thể linh thiêng vô hình được cộng đồng tôn trọng. Các dân tộc ở Trường Sơn-Tây Nguyên khi sở hữu bộ chiêng mới, bên cạnh việc thẩm âm, tức là làm cho chiêng cất tiếng, họ còn thực hiện nghi thức cúng chiêng nhằm chính thức được “thần chiêng” chứng nhận.
Thường thì trong lễ cúng chiêng do già làng hoặc chủ nhân của gia đình đảm trách với các lễ vật như: ché rượu cần, con gà cắt lấy tiết và cơm lam… Khi già làng đọc lời khấn Yàng và các vị thần, trong đó có thần chiêng chứng giám rồi lấy tiết gà vẩy lên từng chiếc chiêng được bày ra trong lễ cúng. Cuối cùng, chủ lễ lấy mấy hạt gạo bỏ vào ché rượu đã châm nước. Nếu hạt gạo thẳng đứng thì xem như thần đã vui vẻ chấp thuận, ngược lại hạt gạo nằm ngang thì thần chiêng chưa đồng ý. Và nếu vậy, chủ lễ phải khấn lại đôi lần đến khi thần chấp nhận mới cho mọi người cầm dàn chiêng lên đánh, xem như thần chiêng đã hòa cùng cộng đồng buôn làng.
Trước khi đem chiêng Tha (gồm 2 chiếc: chiêng vợ, chiêng chồng) ra sử dụng, người Brâu ở Đak Mế (Kon Tum) bao giờ cũng cho Tha ăn uống (rượu và thịt) rồi mới “gọ tha pơi” tức “mời Tha nói” thay vì nói “đánh chiêng Tha”. Họ cất giữ chiêng Tha rất kỹ và treo cách mặt đất một đoạn, nơi ít người qua lại, dòm ngó… Vì lý do nào đó, người chủ phải rời bộ chiêng Tha của mình (bán hoặc trao đổi với người khác), người Brâu phải làm nghi lễ cúng (rượu, thịt gà) và khấn thần chiêng, nói rõ lý do phải chuyển Tha cho chủ khác và thể hiện tình cảm quý mến khi xa rời, mong Tha luôn nhớ đến mình.
Người Cor ở vùng miền núi Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng lưu giữ tục cúng chiêng khi mới mua về và mỗi lần đem chiêng ra sử dụng trong các lễ hội đều phải cúng hồn chiêng với lễ vật rượu cần, thịt gà; không ai được tự ý đem chiêng ra khỏi nhà khi chưa thực hiện nghi lễ với thần chiêng. Người đang có tang chế không được đánh chiêng… Các dân tộc Raglai, Cơ Ho quan niệm rằng, không có cồng chiêng thì không có vật gì để xướng gọi thần linh và tổ tiên về dự lễ hội của cộng đồng. Chỉ có thần chiêng mới kết nối với Yàng và ông bà ở thế giới bên kia. Với họ, cồng chiêng có một giá trị đặc biệt trong đời sống tinh thần mà không có gì thay thế được.